Thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, nước Văn Lang của các Vua Hùng được thành lập - Lạng Sơn trở thành vùng đất của bộ Lục Hải. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ X, Lạng Sơn trở thành đơn vị hành chính của nước Đại Cồ Việt, sau đổi tên thành Đại Việt.

1. Lng Sơn các thế k đầđộc lp (thế k IX - thế k XIV):

Trong thời gian dài của thời kỳ độc lập, với tên gọi Lạng Châu, rồi Lạng Giang, Lạng Sơn là một vùng đất quan trọng của nước Đại Cồ Việt và Đại Việt, nơi qua lại trao đổi của cư dân, sứ bộ hai nước.

Trong ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông, có hai lần quân Nguyên - Mông bị tiêu diệt tại Lạng Sơn. Đất Lạng Sơn, vùng biên cương phía Đông Bắc của tổ quốc, góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân dân Đại Việt (thế kỷ XIII).

2. Lng Sơn t thi Hu Lê đếđầu Nguyn (thế k XV - đầu thế k XIX)

Năm 1406, khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Lạng Sơn lại góp phần quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: Đầu năm 1426, sau khi giải phóng Thanh hóa, nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, kết hợp với các phong trào yêu nước tại các địa phương thống nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Ải Chi Lăng vốn được xem là cửa ải xung yếu nhất, trong kháng chiến chống quân Tống đời Lý và chống quân Nguyên - Mông đời Trần lại được chọn làm trận địa đánh đòn phủ đầu hết sức bất ngờ vào viện binh, làm hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt, Liễu Thăng bị trúng lao chết bên sườn núi Mã Yên (ngày 20/9 năm Đinh Mùi - tức ngày 10/10/1427). Chiến thắng Chi Lăng có ý nghĩa quyết định đến cục diện cuộc chiến, góp phần quan trọng kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Lng Sơn t thế k XVI đến thế k XVIII

Đầu năm 1428, những tên lính Minh cuối cùng rút khỏi đất nước ta, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, nước Đại Việt được khôi phục, đất nước trở lại thanh bình, nhân dân khắp nơi trở về xây dựng quê hương. Cuộc sống của người dân Lạng Sơn tương đối yên bình, đời sống văn hóa, tinh thần của cư dân ngày càng được cải thiện, biên cương quan ải được củng cố, đất đai ruộng đồng được khai phá thêm, nhiều thắng cảnh đẹp ở Lạng Sơn như động Tam Thanh, Nhị Thanh được tôn tạo lại. Bước sang thế kỷ thứ XVI, cùng với sự suy vong của nhà Lê Sơ, Lạng Sơn rơi vào tình trạng thường xuyên bị náo động.

Từ năm 1527, Nhà Mạc thành lập, Lạng Sơn tạm yên trở lại, nhưng vẫn còn một số phụ đạo, thổ tù ủng hộ nhà Lê, không theo Mạc. Chiến tranh Nam - Bắc triều, Lạng Sơn lại chịu cảnh binh lửa.

3. Lng Sơn t gia thế k XIX đến cui thế k XIX

Từ giữa thế kỷ XIX, tình hình kinh tế - xã hội Lạng Sơn trở nên khó khăn. Năm 1854, Lạng Sơn bị bão lụt lớn, mất mùa, nạn đói xảy ra. Triều đình phải vận động các tỉnh láng giềng cứu giúp. Tình hình kéo dài đến khi thực dân pháp tiến đánh Lạng Sơn (1885).

4. Quá trình chuyn biến t phong tràđấu tranh yêu nước sang phong tràđấu tranh cách mng dưới s lãnh đạo cĐảng.

Từ năm 1891, thực dân Pháp tiến hành thiết lập chính quyền đô hộ, chúng đã thực hiện nhiều chính sách phản động về chính trị và kinh tế, khiến đời sống của nhân dân rất cực khổ bởi gánh nặng sưu thuế.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), thực hiện cuộc vận động và xây dựng phong trào quần chúng cách mạng ở các tỉnh miền núi, biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn với mục đích tạo địa bàn hoạt động thuận lợi cho Đảng ta, Chi bộ Đảng cộng sản được thành lập với nhiệm vụ chỉ đạo cách mạng vùng núi biên giới Cao - Bắc - Lạng.

Từ giữa năm 1930, Chi bộ đã hướng dẫn trọng tâm vào việc gây dựng tổ chức quần chúng cách mạng ở hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng. Đồng chí Hoàng Văn Thụ được Chi bộ phân công gây dựng phong trào quần chúng cách mạng ở Lạng Sơn.

5. S ra đời ca Chi B Đảng đầu tiên và phong tràđấu tranh cách mng giai đon 1933  1940

Trước sự tiến triển không ngừng của phong trào cách mạng quần chúng, Chi bộ Đảng vùng biên giới đã quyết định thành lập cơ sở Đảng ở Văn Uyên để làm nòng cốt chỉ đạo phong trào trước mắt và lâu dài. Được sự ủy nhiệm của Đảng, giữa năm 1933, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tới Thuỵ Hùng, tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập Chi bộ Đảng do bản thân đồng chí trực tiếp làm bí thư.  Đây là Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Văn Uyên và cũng là Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Lạng Sơn sau này.

Chấp hành chủ trương của Xứ ủy Bắc Kỳ về việc tiếp tục củng cố, phát triển phong trào cách mạng ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng núi, biên giới, giữa năm 1936, đồng chí Hoàng Văn Thụ - cán bộ đặc trách chỉ đạo vùng biên giới Cao – Bắc – Lạng đã trực tiếp về Bắc Sơn để giác ngộ, tổ chức các cơ sở quần chúng cách mạng. Ngày 25/9/1936, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn được thành lập tại thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng. Được ủy nhiệm của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tới Phi Mỹ, trực tiếp giác ngộ, tích cực bồi dưỡng quần chúng, kết nạp đảng viên mới, thành lập Chi bộ Đảng cộng sản để làm  nòng cốt chỉ đạo phong trào. Ngày 11/4/1938 với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Tràng Định được thành lập.

Khi nghĩa Bc Sơn vi s chuyn biến ca phong trào cách mng trong tnh:

Ngày 22/9/1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn. Sau vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp rút chạy tán loạn qua Bắc Sơn về Thái Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này bị tan rã. Nắm lấy thời cơ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã vùng lên tước vũ khí của tàn binh Pháp, tự vũ trang để đánh Pháp, đuổi Nhật.

Tại Nông Lục (Hưng Vũ), sáng ngày 27/9/1940, một số đồng chí sau khi thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn đã về họp với các Chi bộ Đảng ở Hưng Vũ, Bắc Sơn... với chủ trương lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngay chiều ngày 27/9/1940, nhân dân các xã Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên với trang bị súng kíp, giáo mác, gậy gộc chia làm ba cánh tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Tối cùng ngày, cuộc tấn công bắt đầu. Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa chiếm được châu lỵ Bắc Sơn, chính quyền địch tan rã. Do chưa có sự chuẩn bị chu đáo, nên chúng ta chưa thành lập được chính quyền cách mạng và quân ta chưa chuẩn bị được lực lượng đối phó nên đã bị quân Pháp đàn áp, chiếm lại châu lỵ. Tuy nhiên, quân địch không thể dập tắt được tinh thần chiến đấu của nhân dân. Phong trào cách mạng và khí thế Khởi nghĩa Bắc Sơn vẫn duy trì.

6. Cách mng tháng 8 năm 1945 (1941 - 1945)

Từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, dưới sự tăng cường chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và sự vận động, tổ chức tích cực của cứu quốc quân  từ căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, các đội vũ trang tuyên truyền chiến đấu đã lần lượt ra đời ở nhiều địa phương trong tỉnh như Hội Hoan (Thoát Lãng); Thụy Hùng (Văn Uyên); Chí Minh (Tràng Định).

Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1945, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng, các ban Việt Minh ở các châu Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Bằng Mạc, Tràng Định, Thoát Lãng, Điềm He đã phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền.

Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội. Trước đó, ngày 19/8 tại Đồng Mỏ (Ôn Châu),  quần chúng cách mạng đã làm chủ châu lỵ, Ôn Châu giải phóng. Cùng ngày lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã nổi dậy làm chủ Phố Mẹt, châu lỵ Hữu Lũng. Ngày 21/8, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã bao vây, tước vũ khí Nhật, làm chủ Thất Khê, giải phóng Tràng Định. Tiếp đó là giải phóng Thoát Lãng ngày 22/8; ngày 25/8 lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng lân cận đã tiến vào thị xã, bao vây dinh tỉnh trưởng bù nhìn, buộc địch đầu hàng.

7. Kháng chiến chng pháp (t 1946 - 1954)

Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1946, Chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến” của Trung ương Đảng, trong đó đề ra đường lối chỉ đạo kháng chiến: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, quân và dân các dân tộc Lạng Sơn đã anh dũng bước vào những trận chiến đấu mới chống quân thù.

Cơ quan lãnh đạo của tỉnh đã rút từ căn cứ Ba Xã (Điềm He) về Kéo Coong (Bình Gia) để kịp thời đối phó với kế hoạch quân sự của địch ngay trên địa bàn Lạng Sơn. Đến cuối năm 1947, các căn cứ du kích của tỉnh bắt đầu được xây dựng ở Chi Lăng (Lộc Bình); Ba Sơn (Cao Lộc) hình thành vành đai chiến tranh du kích trong khu vực khống chế của địch.

Ngày 30/10/1947, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với quân chủ lực phục kích địch ở Bông Lau, tiêu diệt 94 tên Pháp, phá hủy và làm hỏng 27 xe quân sự của địch. Chiến thắng Bông Lau đã mở đầu cho hàng loạt những trận đánh oanh liệt của quân và dân ta trên đường số 4. Phát huy tinh thần chiến thắng Bông Lau, từ cuối năm 1947, các lực lượng vũ trang đã liên tiếp tiến công giành nhiều thắng lợi lớn ở Đèo Khách, Bản Nằm, Lũng Vài góp phần tiêu hao sinh lực và chia cắt kế hoạch tiến công lớn của địch.

Giữa năm 1948, phối hợp nhịp nhàng với quân và dân vùng tự do, quân và dân ở những vùng tuyến trước dọc đường số 4 Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Văn Uyên, Thoát Lãng, Tràng Định đã thường xuyên tiến công địch. Thực hiện phong trào thi đua “Cướp súng giặc giết giặc” do Tỉnh ủy phát động và khẩu hiệu “Làm chủ đường số 4 đi đến cắt đứt đường số 4”, ngày 12/9/1948, quân ta tiêu diệt đồn Nà Cáy mà không tốn một viên đạn.

Cùng với phương án tác chiến binh vận, ngày 16/9/1948, lực lượng du kích của ta đã tiến công đồn Lũng Vài, tiêu diệt nhiều tên địch và thu nhiều vũ khí. Trên đà thắng lợi đã liên tiếp tập kích các đồn Đồng Đăng, Lũng Phầy... làm cho địch suy yếu.

Từ đầu năm 1949, các lực lượng vũ trang đã liên tiếp tiến công tiêu diệt địch, bước sang giai đoạn tổng phản công, đánh bại hoàn toàn quân địch.

Tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch biên giới do đồng chí Võ Nguyên Giáp - Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng làm chỉ huy trưởng, kiêm bí thư. Ngày 16/9/1950, quân ta tiến công đồn Đông Khê. Sau hai ngày đêm chiến đấu quyết liệt, quân ta giành thắng lợi. Trên đà thắng lợi, các lực lượng chủ lực có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương đã liên tiếp tiến công tiêu diệt địch trên toàn tuyến đường số 4.

Từ ngày 03 đến ngày 08/10/1950, quân ta đã đánh tan 2 binh đoàn chủ lực của Pháp, tiêu diệt cánh quân cứu viện của chúng từ Hà Nội lên. Ngày 10/10/1950, địch rút khỏi thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định giải phóng. Ngày 13/10/1950, địch rút khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, hai huyện Văn Uyên, Thoát Lãng giải phóng. Ngày 17/10/1950, địch rút khỏi thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, quân ta vào tiếp quản thị xã. Ngày 22/10/1950 địch rút khỏi An Châu (Đình Lập), chấm dứt sự chiếm đóng của thực dân Pháp trên đất Lạng Sơn.

8. Lng Sơn sau chiến thng Đin Biên ph năm 1954:

Đẩy mạnh cải cách dân chủ, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển kinh tế- xã hội (1955 -1960); Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1961 - 1965).

Năm 1961, trước những thất bại liên tiếp trong “chiến tranh đặc biệt” ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc. Trong những năm tháng đối đầu với nhiều đợt bắn phá ác liệt của giặc Mỹ, bằng nhiều hành động thiết thực và lòng dũng cảm cao độ, các đội thanh niên xung phong và quân chủ lực đã góp công sức không nhỏ vào thành tích của quân và dân các dân tộc trong tỉnh.

Vừa củng cố, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, vừa tiến hành chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ (1966 - 1972).

9. Phát trin kinh tế - xã hi (giai đon 1973 - 1978)

Trong giai đoạn này Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn chủ trương đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng - cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học, kỹ thuật và cách mạng tư tưởng. Đẩy mạnh sản xuất nông - lâm - nghiệp, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển sản xuất công nghiệp địa phương và các ngành kinh tế khác. Đến năm 1975, sản lượng lương thực của tỉnh tăng 7% so với năm 1972, phong trào thâm canh, xen canh, tăng vụ lúa, hoa màu được nhân rộng và phát triển tới những vùng cao hẻo lánh, xuất hiện nhiều hợp tác xã có phong trào chăn nuôi trâu, bò.

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, năm 1976, hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng sáp nhập thành tỉnh Cao Lạng. Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Lạng lần thứ nhất, đến cuối năm 1978, tỉnh Cao Lạng đã đạt một số thành tích như GDP của tỉnh đạt 383 triệu đồng, trong đó giá trị sản lượng nông lâm nghiệp đạt 120 triệu đồng, sản lượng lương thực đạt 114 nghìn tấn. Tháng 12/1978, tỉnh Cao Lạng lại tách ra thành hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng.

10. Đẩy mnh phát trin kinh tế - xã hi, bo v ch quyn lãnh th biên gii ca T quc (1979 - 1985).

11. 40 năm thc hin công cuđổi mi về phát trin kinh tế - xã hi:

Bước vào thời kỳ đổi mới, bên cạnh một số thuận lợi cơ bản, Lạng Sơn gặp không ít khó khăn thách thức. Là tỉnh miền núi, biên giới, có xuất phát điểm thấp, còn nghèo, lại phải đối mặt với những diễn biến khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết. Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã “Chung sức, đồng lòng” phấn đấu, đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, phát huy truyền thống cách mạng, tin tưởng vào đường lối đổi mới. Tỉnh Lạng Sơn đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, khơi dậy mọi tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng Lạng Sơn trở thành tỉnh ngày càng phát triển ở miền biên cương của Tổ quốc.

Trong 10 năm đầu (1986 - 1996) tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, vượt lên những thách thức sau sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu, Liên Xô và tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của tỉnh, kịp thời hoạch định những chủ trương đúng đắn trong chỉ đạo thực tiễn; đồng thời, nhận được sự đồng tình, ủng hộ và tích cực tham gia của cả hệ thống chính trị nên đã giành được những thành tựu bước đầu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế liên tục phát triển, nhịp độ tăng trưởng đạt khá cao; GDP bình quân hằng năm đạt trên 7,5%. Đến năm 1996, nền kinh tế của tỉnh có bước phát triển khá rõ rệt. Tốc độ tăng GDP đạt 11,86%. Trong đó, ngành nông, lâm nghiệp tăng 7,5%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 20,30%, ngành thương mại - dịch vụ tăng 17,2%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Thu nhập bình quân người trên một năm đạt 185,3 USD. Tổng thu ngân sách năm 1996 đạt 138.559 triệu đồng, tăng 5,7% so với chỉ tiêu kế hoạch được giao. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 235kg năm 1985 lên trên 250kg năm 1996. Tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí cũ) giảm từ trên 40% năm 1985 xuống còn khoảng 15% năm 1996. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên. Quốc phòng, an ninh được củng cố, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia. 

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (từ năm 1996 đến năm 2020), Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng vào tình hình thực tế của tỉnh trên cơ sở quán triệt quan điểm: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, cùng với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội và quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh luôn nắm vững và giải quyết đúng đắn, hài hòa các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ...; đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ của tỉnh, Đảng bộ lựa chọn những nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm để tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của tỉnh trong từng nhiệm kỳ.

Trong chỉ đạo phát triển kinh tế, đi đôi với tập trung phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, Đảng bộ tỉnh coi trọng phát huy vai trò của các thành phần kinh tế nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Đồng thời, xác định quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước tiên phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đến nay, toàn tỉnh có 96 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 22 xã nâng cao và 04 xã kiểu mẫu; thành phố Lạng Sơn được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. 

Cùng với việc tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh đã quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xác định xây dựng văn hóa và con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Chú trọng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số và các giá trị di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn tỉnh. Chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách xã hội vì con người, lấy con người là trung tâm đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân từng bước được cải thiện. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm. Tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí mới) trên địa bàn tỉnh giảm nhanh, từ trên 40% những năm 2000 xuống còn 7,89% năm 2020. 

Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quan trọng; công tác phát triển tổ chức cơ sở đảng, đảng viên luôn được quan tâm phát triển cả về số lượng, chất lượng; đồng thời, tăng cường “đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đẩy mạnh xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, trong đó chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Đổi mới công tác cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Nhờ vậy, trong nhiều nhiệm kỳ, Đảng bộ tỉnh luôn đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tạo động lực để Đảng bộ tỉnh vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong từng giai đoạn. 

Kinh tế ngày càng phát triển; đến năm 2023, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 7,11%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp chiếm 19,98%; công nghiệp - xây dựng 25,3%, dịch vụ 50,19%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4,53%. GRDP bình quân đầu người tăng từ 44,34 triệu đồng năm 2020 tăng lên khoảng 55,97 triệu đồng năm 2023, tương đương tăng từ 1.970 USD lên 2.382 USD. Thực hiện có hiệu quả 04 chương trình trọng tâm trong lĩnh vực kinh tế của tỉnh. Trong 2 năm 2021, 2022 đã đánh giá phân hạng 65 sản phẩm OCOP, nâng tổng số toàn tỉnh lên 94 sản phẩm. Phong trào xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng khắp. Đến hết quý I/2023, đã công nhận 21 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 10 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, ước hết năm 2023, có 96 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 22 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

Sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển khá toàn diện. Công tác bình ổn giá được thực hiện tốt, bảo đảm cung ứng đủ hàng hóa thiết yếu. Hoạt động du lịch có sự phục hồi khởi sắc; dự ước tổng lượng khách du lịch năm 2023 đạt khoảng 3,76 triệu lượt khách, gấp 3,53 lần so với năm 2020; doanh thu du lịch ước đạt 2.850 tỷ đồng; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 9.149,5 tỷ đồng; công tác chuyển đổi số được tổ chức triển khai toàn diện, nhận được nhiều giải thưởng lớn và được đánh giá cao trên toàn quốc. Năm 2022, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) xuất sắc vươn lên đứng thứ 15/63 tỉnh, thành phố; là năm đầu tiên công bố chỉ số xanh cấp tỉnh (PGI), tỉnh Lạng Sơn xếp thứ 02/63 tỉnh, thành phố. Hoàn thành 19/30 chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TU, ngày 28/9/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Chính quyền số, chuyển đổi số được triển khai xây dựng, hoàn thiện và nâng cấp, là tỉnh đầu tiên triển khai nền tảng “Lạng Sơn Cloud”, App “Công dân số Xứ Lạng”; thí điểm nền tảng cửa khẩu số đầu tiên trên toàn quốc, với gần 300 chức năng, là một trong những tỉnh đầu tiên triển khai gắn mã QR Code biển tên đường, phố, công trình công cộng và khu di tích danh thắng. Giáo dục - đào tạo có chuyển biến tiến bộ và toàn diện. Quy mô, mạng lưới trường, lớp đa dạng, phù hợp, số trẻ mầm non đến trường, học sinh đi học phổ thông được duy trì đạt tỷ lệ trên 99%. Chất lượng giáo dục được củng cố, tỷ lệ tốt nghiệp các cấp học và trúng tuyển đại học, cao đẳng, trung cấp, số học sinh giỏi các cấp tăng. Số trường đạt chuẩn quốc gia dự ước đến hết năm 2023 là 284 trường. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng; dịch COVID-19 cơ bản được khống chế, tỷ lệ tiêm chủng vắc - xin của tỉnh trong nhóm 15 tỉnh có tỷ lệ tiêm chủng nhanh và cao so với cả nước. Các hoạt động văn hóa, thể thao được quan tâm, lần đầu tiên tỉnh có vận động viên đạt 01 Huy chương vàng, 03 Huy chương đồng môn Wushu tại kỳ SEA GAMES  31 

Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Đảng bộ tỉnh đã chủ động triển khai các giải pháp sáng tạo để xử lý kịp thời, có hiệu quả. Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia được giữ vững. Quan hệ đối ngoại, nhất là đối với Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc) được đặc biệt chú trọng thực hiện đạt kết quả tốt. 

Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, Lạng Sơn đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, tự tin vững bước cùng đất nước tiến mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Dù trải qua nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thiên tai, song với sự đồng lòng, quyết tâm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, Lạng Sơn đã ghi dấu nhiều dấu mốc ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội. 

Tỉnh đã thực hiện đạt và vượt 18/20 chỉ tiêu chủ yếu; nhiều chỉ số kinh tế tăng trưởng vượt mức bình quân quốc gia; chất lượng giáo dục, y tế, an sinh xã hội được đầu tư và cải thiện rõ rệt. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 7,1%. GRDP bình quân đầu người tăng từ 44,2 triệu đồng năm 2020 dự ước tăng lên 71,1 triệu đồng năm 2025, tương đương tăng từ 1.917 USD lên 2.900 USD. Tổng thu ngân sách 5 năm đạt 48.187 tỷ đồng (tăng 50,2% so với giai đoạn trước). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa các loại hình qua các cửa khẩu tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2025 đạt 234,58 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu mở tờ khai tại Hải quan Lạng Sơn đạt khoảng 24,2 tỷ USD. Xuất khẩu hàng hóa địa phương ước đạt 780 triệu USD, bình quân hằng năm tăng 8,81%. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực. Hết năm 2024, toàn tỉnh có 106/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 28/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 10/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; đạt chuẩn bình quân 15,21 tiêu chí/xã, tăng 2,31 tiêu chí/xã so với năm 2020. 

Quy hoạch và kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; 100% đô thị trên địa bàn tỉnh đã được lập quy hoạch chung đô thị, 44,4% đô thị được lập quy hoạch phân khu. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trọng tâm là hạ tầng giao thông, đô thị, khu, cụm công nghiệp được chú trọng đầu tư, nâng cấp. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 181,7 nghìn tỷ đồng. Khởi công nhiều dự án giao thông có tính kết nối liên vùng, dự án khu, cụm công nghiệp quan trọng như: Tuyến cao tốc cửa khẩu Hữu Nghị - Chi Lăng; cao tốc Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn) - Trà Lĩnh (tỉnh Cao Bằng)… Trong nhiệm kỳ đã thành lập 01 khu công nghiệp và 09 cụm công nghiệp, lũy kế toàn tỉnh có 02 khu và 10 cụm công nghiệp. Công tác đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh được thúc đẩy mạnh mẽ: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tăng 33 bậc; doanh nghiệp, hợp tác xã mới liên tục gia tăng. Thành lập mới 3.334 doanh nghiệp tăng 1.496 doanh nghiệp so với nhiệm kỳ trước; hết năm 2025 toàn tỉnh có khoảng 5.700 doanh nghiệp, gấp 1,8 lần so với năm 2020.

Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số tiến bộ mạnh mẽ, xếp hạng nhóm đầu cả nước. Giáo dục đào tạo đạt nhiều kết quả tích cực; quy mô, mạng lưới trường, lớp được sắp xếp hợp lý, đảm bảo tinh gọn, hiệu quả với 317 trường đạt chuẩn quốc gia. Y tế được đầu tư, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao. An sinh xã hội được quan tâm thực hiện, đến hết tháng 8/2025 đã xóa xong toàn bộ 6.508 nhà tạm, nhà dột nát. An ninh biên giới được giữ vững, hoạt động quốc phòng - an ninh, ngoại giao được triển khai toàn diện, đảm bảo ổn định và đồng thuận trong xã hội. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được tăng cường, đạt nhiều kết quả tích cực. Khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố vững chắc, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được tăng cường, đạt nhiều kết quả tích cực. Tiếp tục đổi mới, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành chặt chẽ, hiệu lực, hiệu quả của các cấp chính quyền. Chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức được nâng lên; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng nền nếp, hiệu quả, chuyển biến rõ nét. Việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phát huy được hiệu quả. Công tác dân vận của hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường và đổi mới mạnh mẽ, góp phần tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo, điều hành của các cấp ủy, chính quyền các cấp.

Cấp ủy, chính quyền các cấp thể hiện bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm cao, chủ động, nhạy bén trong nắm bắt, phân tích, đánh giá tình hình; kịp thời đề ra các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp điều kiện thực tiễn của tỉnh. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới, phát huy tốt vai trò đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố vững chắc, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.